Tổng quan Đầm_và_hồ_ở_Việt_Nam

Theo định nghĩa của các nhà Thủy văn Nga thì Hồ và Đầm là những lòng chảo hoặc vùng trũng của bề mặt đất có chứa nước. Như vậy ở Việt Nam có các loại Hồ và Đầm phá như sau:[1]

  • Hồ và Đầm tự nhiên nước ngọt: Các hồ đầm tự nhiên ở vùng đồng bằng thường là dấu vết còn lại của các đoạn sông hay vỡ đê. Các hồ này nước ít luân chuyển, các hồ đầm tự nhiên xuất hiện ở vùng núi thường là dấu vết còn lại của núi lửa, động đất hay những nguyên nhân khác. Phần lớn các hồ đầm tự nhiên nước không chảy nhưng cũng có hồ nước chảy nhẹ như hồ Ba Bể.
  • Các lợi đầm phá nước mặn: Các đầm phá nước mặm có rất nhiều ở vùng ven biển Việt Nam, và đang được khai thác triệt để.
  • Hồ và kho nước nhân tạo

Tính đến năm 2003 Việt Nam có khoảng 3500 hồ chứa có dung tích lớn hơn 0.2 triệu m3. Chỉ có 1976 hồ có dung tích lớn hơn 1 triệu m3, chiếm 55,9% với tổng dung tích 24.8 tỷ m3. Trong số hồ trên có 10 hồ do ngành điện quản lý với tổng dung tích 19 tỷ m3. Có 44 tỉnh và thành phố trong 63 tỉnh thành Việt Nam có hồ chứa. Tỉnh có nhiều hồ nhất là Nghệ An (249 hồ), Hà Tĩnh (166 hồ), Thanh Hóa (123 hồ), Phú Thọ (118 hồ), Đắk Lăk (116 hồ) và Bình Định (108 hồ).

Trong số 1957 hồ cấp nước tưới do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Việt Nam) quản lý phân theo dung tích có: 79 hồ có dung tích trên 10 triệu m3,66 hồ có dung tích từ 5 đến 10 triệu m3,442 hồ có dung tích từ 1 đến 5 triệu m3,1370 hồ có dung tích từ 1 đến 2 triệu m3.Tổng dung tích các hồ chứa này là 5.8 tỷ m3 nước tưới cho 505.162 ha.

Hệ sinh thái hồ khác với ao và đầm ở độ sâu: ánh sáng chỉ chiếu được vào tầng nước mặt, do đó vực nước được chia thành 2 lớp:[2]

  • Lớp nước trên được chiếu sáng nên thực vật nổi phong phú, nồng độ oxy cao, sự

thải khí oxy trong quá trình quang hợp và nhiệt độ của lớp nước trên thay đôi phụ thuộcvào nhiệt độ không khí.

  • Lớp nước dưới thiếu ánh sáng, nhiệt độ ổn định (40C), nồng độ oxy thấp, nhất là

trong trường hợp có sự lên men các chất hữu cơ tầng đáy.